Một trong những nguyên nhân cơ bản và quan trọng nhất dẫn đến thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là đường lối kháng chiến đúng đắn của Ðảng ta. Ðường lối này có nội dung cốt lõi là: Toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh. Trong phạm vi
Kháng chiến của ta nhất định thắng lợi. Trong " Thư gửi quân và dân Tây Bắc ", ngày 21 tháng 11 năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: " …. Kháng chiến của ta nhất định thắng lợi, nhưng phải trường kỳ, gian khổ, tự lực cánh sinh. " 1 (Báo Nhân dân, số 149
Câu hỏi. Nhận biết. Thắng lợi quyết định nhất trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954) của nhân dân Việt Nam là trên mặt trận. A.
Tác phẩm "Kháng chiến nhất định thắng lợi" Nội dung đường lối kháng chiến của Đảng: toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế Bài 18 II NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946 - 1950)
Từ đây đã thể hiện vai trò, tầm quan trọng của Đặc khu Quảng Đà đối với chiến trường miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.Đặc khu ủy Quảng Đà đã lãnh đạo cán bộ, chiến sĩ, nhân dân đấu tranh đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, góp
Vay Tiền Nhanh. KỶ NIỆM 66 NĂM CHIẾN THẮNG IỆN BIÊN PHỦ - Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi Một trong những nguyên nhân cơ bản và quan trọng nhất dẫn đến thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là đường lối kháng chiến đúng đắn của ảng ta. ường lối này có nội dung cốt lõi là Toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh. Trong phạm vi bài viết này, xin đề cập đến khía cạnh trường kỳ của nội dung cốt lõi nói trên. 1. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đường lối kháng chiến của Đảng được thể hiện rõ trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Thường vụ Trung ương Đảng và đồng chí Trường Chinh Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng giải thích rõ hơn trong tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi tháng Bộ Tổng tư lệnh họp bàn kế hoạch, phương án tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điên Biên Phủ, đầu năm 1954. ẢNH tư liệu Đường lối kháng chiến của Đảng được hoạch định trên cơ sở kế thừa truyền thống và kinh nghiệm đánh giặc giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc ta, vận dụng sáng tạo quan điểm chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và xuất phát từ thực tiễn tình hình đất nước - trên cơ sở so sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch, khi bước vào cuộc chiến. 2. Sở dĩ Đảng và Bác Hồ quyết định phải “Trường kỳ kháng chiến” - kháng chiến lâu dài, vì những lý do chủ yếu sau đây Một là, so sánh tương quan lực lượng giữa ta và Pháp trong những ngày đầu cuộc chiến quá chênh lệch. Nhiều người đã dùng hình ảnh châu chấu đá voi hay châu chấu đá xe để so sánh. Trên thực tế lúc này quân Pháp rất mạnh, gấp nhiều lần chúng ta, với đầy đủ các quân binh chủng hải, lục, không quân, tăng thiết giáp, pháo binh.... Đội quân này được trang bị đầy đủ vũ khí tối tân nhất lúc bấy giờ, chỉ trừ bom nguyên tử. Và đây là đội quân chính quy, được đào tạo rất bài bản. Địa bàn Việt Nam lại quá quen thuộc với quân Pháp sau hơn 80 năm có mặt trên đất nước ta... Còn về phía chúng ta, khi bước vào cuộc chiến chúng ta chỉ có bộ binh, lại chưa được huấn luyện bài bản. Vũ khí thì thiếu thốn. Kỹ sư Trần Đại Nghĩa từ Pháp về mới bắt tay vào nghiên cứu chế tạo, nhưng cũng trong điều kiện thiếu thốn trăm bề.... Trước so sánh tương quan lực lượng như vậy, nếu chúng ta đưa quân chủ lực ra đương đầu với quân Pháp thì chỉ một trận là “hết vốn”. Vì thế, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh mới sáng suốt chọn phương châm phù hợp là Trường kỳ kháng chiến - đánh lâu dài. Đảng và Bác xác định Đánh lâu dài nhằm vừa đánh vừa xây dựng lực lượng, chuyển yếu thành mạnh, chuyển thiếu thành đủ. Đồng thời, cũng nhấn mạnh, lâu dài song không có nghĩa là không có thời hạn, đến một lúc nào đó, khi so sánh tương quan lực lượng chênh lệch, theo hướng có lợi cho chúng ta và thời cơ đến, sẽ tiến hành tổng phản công, giành thắng lợi quyết định. Hai là, trường kỳ kháng chiến - đánh lâu dài, là nhằm đối chọi và làm phá sản âm mưu của thực dân Pháp. Trong những ngày đầu tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, âm mưu của Pháp là đánh nhanh, thắng nhanh. Đánh nhanh, thắng nhanh sẽ phát huy được ưu thế quân sự áp đảo của Pháp; giúp Pháp nhanh chóng đạt mục đích quay trở lại tái chiếm Việt Nam và Đông Dương. Đồng thời, khắc phục được điểm yếu lớn nhất của quân Pháp là hậu cần. Không để cho quân Pháp áp đặt lối chơi, phát huy thế mạnh, đồng thời, nhằm vào “gót chân Achilles” của kẻ thù, chúng ta đã chọn cách đánh du kích, lâu dài. Đây cũng là cách đánh “Lấy đoản binh chế trường trận” đã được Đảng ta vận dụng trong thời đại mới. 3. Với đường lối kháng chiến đúng đắn nói chung, phương châm trường kỳ kháng chiến nói riêng, đã góp phần quan trọng làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 - 1954. Trong cuộc kháng chiến này, căn cứ vào tình hình thực tế, với phương châm vừa đánh vừa xây dựng lực lượng, chúng ta đã chủ động phòng ngự 1946 - 1947, rồi tiến lên cầm cự 1948 - 1950 và chuyển sang phản công 1950 - 1954 mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử, lừng lẫy 5 châu, chấn động địa cầu. 4. Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bài học hoạch định đường lối đúng đắn nói chung, xác định đúng phương châm trường kỳ kháng chiến, trong kháng chiến chống Pháp nói riêng, vẫn còn nguyên giá trị. Tiếp tục vận dụng sáng tạo bài học này giúp cho chúng ta có phương pháp đúng trong hoạch định đường lối nói chung, đường lối quốc phòng nói riêng. Phải luôn xuất phát từ thực tiễn đất nước, đánh giá so sánh đúng tương quan lực lượng để lựa chọn cách ứng xử, đối phó phù hợp. Mặt khác, bài học này cho chúng ta thêm vững tin vào tiền đồ tươi sáng của đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Con đường phía trước dù lắm chông gai, song nhất định chúng ta sẽ luôn gặt hái được những thành tựu rực rỡ trong xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam thân yêu. LÊ VĂN MINH Trường Chính trị tỉnh
Dạo này tư vấn Scrum nhiều, có cơ hội nhìn nhiều người làm việc, lại gặp nhiều người có tâm lý “nhảy vọt”, làm việc gì cũng muốn nhanh. Theo một quy trình nào đó PMI, CMMI thấy mãi chả ngon, nghe đồn Scrum ổn thế là là nhảy sang với hy vọng nó sẽ nhanh chóng giúp mình ra khỏi đống bùn lầy. Nhưng chỉ được vài ngày là nản, thấy performance giảm, quy ngay cho Scrum chẳng ra gì. E rằng tiếp cận như thế rất không ổn. Vậy nên chép ra đây một entry blog cũ, như một lời nhắn nhủ tới các bạn đừng sớm nản, nhanh thì vài ba tháng, chậm có khi phải cả năm; nhưng nhất định thắng lợi! ____________________________________ Trường kì kháng chiến nhất định thắng lợi Ban đầu mình định lấy tiêu đề cho bài viết này là It takes time’, và kết thúc bằng câu tiêu đề vốn ăn cắp ý tưởng của cụ Hồ. Nhưng cuối cùng mình lại viết câu ấy trước. Thôi thì đầu đít tráo đổi 🙂 Nhưng cái thân thì chắc chắn là mình vẫn giữ đại khái như thế này Người ta ca ngợi cụ Giáp là một vị tướng vĩ đại không chỉ vì có những chiến công hiển hách, mà vì cụ còn có công lớn trong việc xây dựng cả một quân đội from scratch’. Tuy thế, để đi từ Phay Khắt đến Điện Biên Phủ, Cụ và đồng chí cũng cần tới 10 năm với bao nhiêu gian khổ, mồ hôi và xương máu của nhân dân. Không có gì là hiển nhiên cả! Tại sao lại dính cụ Giáp vào đây? Chả là hồi tết, mấy bạn hiền có tặng mình cuốn sách Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp’. Sau một hồi lên gân lên cốt lật hết trang nọ đến trang kia, mình quyết định quyển này chỉ để trưng bày thì tốt, không nên giở ra đọc vì có cơ trật gân cuốn sách nặng khoảng trên 2 kí. Hôm nay về nhà tự dưng lại thấy cái gáy sách, thế là viết. Quay lại chuyện cụ Giáp, mình có rút ra một ý nhỏ để tự động viên mình, cũng có thể động viên nhiều người khác khi phải đương đầu với các công việc khó khăn, cần sự kiên trì bền chí và quyết tâm lâu dài, rằng hãy làm hết mình, ngày chiến thắng sẽ đến khi bạn đã rõ con đường phải đi. Dù có thể gặp nhiều chông gai, con đường có thể quanh co gập ghềnh, nhưng trường kì kháng chiến nhất định thắng lợi”. Nhưng nó cũng mất thời gian đấy! It takes time… Viết hồi t9-2010 Written by Tấn Dương
Những bài báo này đã được Nhà xuất bản Sự thật xuất bản thành sách với nhan đề Kháng chiến nhất định thắng lợi nhân dịp kỷ niệm lần thứ hai ngày Nam Bộ kháng chiến. Trong tác phẩm này, Tổng Bí thư Trường Chinh đã đề ra các luận chứng và phát triển toàn bộ đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ nhất định thắng lợi của Đảng ta. Tổng Bí thư vạch rõ kẻ thù chính của nhân dân ta là thực dân Pháp xâm lược, còn nhân dân Pháp là bạn của ta. Mục đích cuộc kháng chiến của nhân dân ta là độc lập và thống nhất thật sự. Để đạt mục đích đó, quân dân ta phải đạt được ba mục tiêu về quân sự tiêu diệt sinh lực địch trên đất ta; đè bẹp ý chí xâm lược của địch; lấy lại toàn bộ đất nước. Giành độc lập và thống nhất là mục đích của cuộc kháng chiến song cuộc kháng chiến chống Pháp là sự tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân bằng hình thức chiến tranh. Bởi vậy, nhiệm vụ chống phong kiến, thực hiện dân chủ và chính sách ruộng đất vẫn phải đi đôi với nhiệm vụ chống đế quốc. Nhưng vì giải phóng dân tộc là yêu cầu cấp bách nhất cho nên yêu cầu dân chủ không thể đặt ngang hàng với yêu cầu độc lập dân tộc. Chủ trương của Đảng là thực hiện từng bước chính sách ruộng đất với nội dung cụ thể là tịch thu ruộng đất của đế quốc và bọn Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia ruộng đất công, giảm tô và giảm tức tiến lên thực hiện cải cách ruộng đất. Tác phẩm trình bày rõ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam là cuộc chiến tranh tự vệ, chiến tranh giải phóng, chiến tranh chính nghĩa, là "một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do độc lập, dân chủ và hoà bình". Tác phẩm luận chứng rõ cuộc kháng chiến của nhân dân ta là cuộc kháng chiến toàn dân và toàn diện, lâu dài và gian khổ. Về chính trị đường lối kháng chiến của Đảng là đoàn kết toàn dân chống Pháp xâm lược trên cơ sở củng cố liên minh công nông trong mặt trận dân tộc thống nhất. Trên trường quốc tế, phải cô lập kẻ thù, tranh thủ thêm nhiều bạn, làm cho nhân dân Pháp và nhân dân các thuộc địa Pháp tích cực ủng hộ ta chống lại thực dân Pháp và làm cho các lực lượng hoà bình và dân chủ trên thế giới đồng tình và ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Cuộc kháng chiến chống Pháp là cuộc chiến tranh nhân dân, do nhân dân tiến hành. Do đó, phải làm cho toàn dân tham gia và phục vụ kháng chiến. Muốn vậy, phải làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục chính trị, chăm lo cải thiện đời sống nhân dân, mở rộng quyền dân chủ cho nhân dân đặng "dốc lực lượng của 25 triệu đồng bào vào cuộc chiến đấu”. Để thực hiện nhiệm vụ kháng chiến về chính trị, một mặt phải củng cố chính quyền nhân dân, tăng cường bộ máy kháng chiến, thống nhất quân, chính, dân, quân sự phải phục tùng chính trị; mặt khác, kiên quyết trấn áp bọn phản động, triệt mầm chia rẽ và phá hoại trong nhân dân, đào thải các phần tử phản bội phá hoại, cơ hội, ươn hèn quan liêu, quân phiệt, bè phái khỏi bộ máy kháng chiến. Về quân sự phương châm chiến lược chung của cuộc kháng chiến là đánh lâu dài, vừa đánh vừa giữ gìn, bồi dưỡng và phát triển lực lượng ta, chuyển yếu thành mạnh; đồng thời làm cho địch bị tiêu diệt và tiêu hao, mỏi mắt, chán nản, từ mạnh chuyển thành yếu và bị bại. Chiến thuật của chiến tranh nhân dân là tích cực tiến công, giải quyết mau trong từng trận. Vì vậy, du kích chiến là lối đánh phổ biến nhất trong toàn bộ cuộc kháng chiến và trong cả nước, dần dần vận động chiến được áp dụng nhiều hơn cho tới lúc chiếm ưu thế. Cuộc kháng chiến sẽ trải qua ba giai đoạn phòng ngự, cầm cự, và tổng phản công và trong quá trình kháng chiến có thể "có những cuộc đàm phán mới xen vào". Để kháng chiến lâu dài, phải xây dựng lực lượng vũ trang hùng hậu gồm ba thứ quân quân chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích. Để tiến hành chiến tranh nhân dân thì phải huy động toàn dân đánh giặc, phải có phương thức tác chiến thích hợp để động viên lực lượng toàn dân vào cuộc chiến đấu với địch ở bất cứ đâu. Với kinh tế một mặt, phá hoại kinh tế địch, không cho địch "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh"; mặt khác, xây dựng kinh tế ta theo hướng tự cung tự cấp về mọi mặt, vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Chính sách kinh tế ta là nâng cao sức sản xuất đáp ứng nhu cầu của thời chiến "ăn no, mặc ấm, đánh khoẻ”, bước đầu xây dựng kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã, coi trọng nông nghiệp và thủ công nghiệp, chú trọng công nghiệp quốc phòng, tăng thu, giảm chi, thực hành tiết kiệm, giảm nhẹ sự đóng góp của dân, củng cố tiền tệ, giữ vững giá hàng,... Về văn hoá đánh đổ văn hoá nô dịch, ngu dân và xâm lược của thực dân Pháp và xây dựng nền văn hoá mới theo ba nguyên tắc dân tộc, khoa học và đại chúng... Đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh chỉ rõ, cuộc kháng chiến của nhân dân ta nhất định thắng lợi nếu Đảng nắm vững chủ nghĩa Mác-Lênin và bám chắc lấy quần chúng nhân dân, phát huy khả năng của toàn dân. Đồng chí khẳng định "Dưới tay lái tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh, con tàu Việt Nam với đoàn thuỷ thủ dũng cảm của nó, nhất định sẽ tránh được mọi đá ghềnh, vượt cơn sóng cả để cập bến vinh quang”. - Xem thêm tài liệu tham khảo TẠI ĐÂY Nguồn Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia, 2008.
Ngày 11/6 vừa qua, ông Tạ Quang Chiến, người cận vệ cuối cùng được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt tên trong nhóm 8 cận vệ “Trường/ Kỳ /Kháng /Chiến /Nhất/ Định /Thắng/ Lợi” qua đời hưởng thọ 98 tuổi, khép lại một thế hệ cận vệ gồm 8 người từng mang trong mình nhiệm vụ bảo vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Giai thoại về 8 con người được “khai sinh” lại đến nay vẫn được nhắc lại nhiều, phần vì sự đặc biệt từ ý nghĩa của 8 cái tên ghép lại, phần vì sự cao cả và trách nhiệm lớn lao của họ khi được tin tưởng giao nhiệm vụ ở bên cạnh Bác Hồ. Hồi ức từ những tháng ngày đầy thăng trầm của đất nước Vào những ngày gần cuối cuộc đời, ông Nguyễn Hữu Văn, người được Bác Hồ đặt tên là Chiến vẫn còn nhớ rất sâu đậm về ký ức một thời đất nước gian nguy. Thời khắc được là một trong số những người đi theo Bác lên Chiến khu Việt Bắc, ông cảm thấy đã mang trong mình trách nhiệm to lớn, dẫu có khó khăn gian khổ, được làm việc cùng Bác Hồ là một trong những điều may mắn và hạnh phúc. Bức tranh vẽ ông Tạ Quang Chiến phụ việc cho Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Tuyên Quang năm 1949. Vào tháng 12/1946, sau khi ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Bác Hồ cùng Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành… đã phải rời Hà Nội để lên Chiến khu Việt Bắc. Những ngày đầu kháng chiến, theo chỉ thị của Trung ương, Tổ Cận vệ bảo vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh hành quân trở lại Chiến khu Việt Bắc. Đi với Bác là bộ phận gọn nhẹ có 8 cận vệ gồm các đồng chí Võ Chương, Vũ Long Chuẩn, Nguyễn Văn Lý, Văn Lâm, Ngọc Hà, Nguyễn Quang Chí, Trần Đình và Nguyễn Hữu Văn. Nói là cận vệ của Bác nhưng thực tế Tổ Cận vệ làm tất cả các công việc Bác giao như cảnh vệ, công tác văn phòng, liên lạc, hậu cần… Phương châm đặt ra là một người thạo nhiều việc, song bảo vệ Bác vẫn là nhiệm vụ quan trọng nhất. Đến khoảng thời gian đầu tháng 3 năm 1947, Bác Hồ và mọi người đến được xã Cổ Tiểt, Tam Nông, Phú Thọ, tạm thời dừng chân tại đây. Sáng ngày 06/3/1947, lúc ấy, Bác gọi tám người anh em đi theo Bác lại bàn bạc. Bác rất hiểu tình hình và hoàn cảnh, dẫu khó khăn nhưng Bác vẫn mong mỏi mọi người phải hết sức cố gắng. Sau khi căn dặn công chuyện, phân công việc làm và nhắc nhở mọi người phải giữ thông tin tuyệt mật, lúc này Bác mới đưa ra ý tưởng đặt tên cho tám anh em. Bác có nói, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta mới bắt đầu và còn lâu dài, gian khổ, nhưng nhất định sẽ thắng lợi. Từ hôm nay trở đi, để tỏ lòng quyết tâm kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và cũng là để giữ bí mật, Bác đặt tên cho các chú là Trường - Kỳ - Kháng - Chiến - Nhất - Định - Thắng - Lợi. Bác chỉ vào từng người đang quây quần bên Bác, đặt tên cho từng đồng chí theo thứ tự vòng tròn lúc đó. Bảo vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đường đi công tác từ Đèo Khế, Thái Nguyên sang Tuyên Quang năm 1947 đồng chí Hoàng Hữu Kháng - 1 trong 8 cận vệ ngồi thứ 4 từ trái sang. “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” - như một lời khẳng định, quyết tâm hết sức vì thời cuộc từ Bác, cũng là một cách trấn an tinh thần, gây dựng một lòng vững chãi từ tám người chiến sĩ tin tưởng đi theo phục vụ Bác mà không hề nao núng. Sau này, bất kỳ vị trí của người nào thay đổi người tiếp theo vẫn tiếp tục kế thừa cái tên mà Bác đã đặt cho. Mọi người dường như được khai sinh lần nữa, và lần này mang trong mình một lòng tự hào vì được giao phó nhiệm vụ góp sức cùng người cha của dân tốc, đồng hành trên quãng đường tiến tới giải phóng non sông. Mỗi khi có một trong tám người chuyển công tác, đều có người khác thay, vì vậy có 3 người kế tiếp nhau tên là Trường, 2 người tên là Nhất và 2 người tên là Thắng. Ba người kế tiếp nhau tên Trường Người đầu tiên Võ Trường tên thật là Võ Chương, gốc Huế. Trước Cách mạng tháng Tám dạy học tại Thanh Hóa, sau chuyển về Hà Nội vừa dạy học vừa hoạt động cách mạng. Sau đó, được tuyển vào Đội Thanh niên cứu quốc Hoàng Diệu. Tháng được đồng chí Nguyễn Lương Bằng bổ sung vào đội cận vệ của Bác. Khi lên tới Chiến khu Việt Bắc, ông chuyển sang làm công tác khác và lâm bệnh mất năm 1949. Người thứ hai mang tên Trường là ông Hoàng Văn Phức, tức Văn Lâm. Là người dân tộc Tày, quê ở Cao Bằng. Trước năm 1945, là tự vệ của căn cứ địa cách mạng Cao Bằng, từ tháng được giao nhiệm vụ bảo vệ Bác với tên Nhất. Sau khi ông Võ Chương nhận nhiệm vụ khác, ông Hoàng Văn Phức thay thế ông Trường và được gọi là Hồ Văn Trường. Về sau ông được giao nhiệm vụ coi giữ kho tài sản của Ngân hàng Nhà nước và từng là cán bộ Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, ông mất năm 1994. Người thứ ba mang tên Trường tên thật là Phạm Văn Nền, quê ở Hà Nội. Về sau làm lái xe cho Bác cho đến khi Bác mất. Ông Nền mất năm 1996. Người mang tên Kỳ Vũ Kỳ, tên thật là Vũ Long Chuẩn, tức Nguyễn Cần, quê ở Hà Đông, tham gia Cách mạng từ năm 1941, bị địch bắt giam ở nhà tù Hoả Lò, Hà Nội; năm 1945 vượt ngục, tham gia Tổng khởi nghĩa Tháng 8/1945 tại Hà Nội. Ông làm Thư ký giúp việc Bác Hồ từ 8/1945 đến năm 1949 và từ năm 1957 đến khi Bác mất. Trước khi nghỉ hưu, ông là Đại biểu Quốc hội khóa VIII, Giám đốc Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh. Ông mất năm 2005. Người mang tên Kháng Hoàng Hữu Kháng, quê ở Thái Bình, tên thật là Nguyễn Văn Cao, tức Lý. Ông hoạt động Cách mạng trước năm 1945, từng bị địch bắt giam tại nhà tù Sơn La từ năm 1941, sau đó chuyển về nhà tù Chợ Chu, Thái Nguyên. Ông vượt ngục và tham gia xây dựng căn cứ địa ở Chiến khu Việt Bắc, làm Hiệu phó Trường quân chính kháng Nhật. Sau này, ông là Thiếu tướng, Cục trưởng Cục Cảnh vệ, Bộ Công an. Ông mất năm 1994. Người thứ tư tên Chiến Tạ Quang Chiến, tên thật là Nguyễn Hữu Văn, tham gia cách mạng năm 1943, sau Cách mạng Tháng 8/1945 được phục vụ Bác Hồ, đến năm 1957 chuyển công tác khác. Ông từng là Bí thư Trung ương Đoàn, Tổng cục trưởng Tổng cục Thể dục Thể thao, Đại biểu Quốc hội, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Y tế Xã hội của Quốc hội khóa VII, đã qua đời vì tuổi già tháng 6/2022, là người cận vệ cuối cùng của Bác ra đi. Hai người mang tên Nhất gồm người đầu tiên Hồ Văn Nhất dân tộc Tày, quê ở Cao Bằng, tên thật là Hoàng Văn Phúc, bí danh Văn Lâm, bảo vệ Bác từ tháng 5/1945 khi Bác về Tân Trào, Tuyên Quang. Sau khi ông Võ Trường chuyển sang làm công tác khác, ông Hồ Văn Nhất thay thế ông Trường và được gọi là Hồ Văn Trường. Như vậy ông vừa có tên là Nhất vừa có tên là Trường. Sau này ông là cán bộ Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, mất năm 1994. Người thứ hai mang tên Nhất thay ông Hồ Văn Nhất là ông Long Văn Nhất, bí danh là Tiên Phong, nguyên là cận vệ của đồng chí Võ Nguyên Giáp được điều sang phục vụ Bác Hồ. Ông mất năm 1967. Người thứ sáu tên Định Võ Viết Định, tên thật là Chu Phương Vương, tức Ngọc Hà, là chiến sĩ Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, quê ở Cao Bằng, bảo vệ Bác từ tháng 8/1945. Tới tháng 5/1952 chuyển công tác. Sau này, có thời gian ông là Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ nhiệm Công ty Xây lắp cơ khí thuộc Khu liên hợp gang thép Thái Nguyên. Ông đã mất. Hai người được mang tên Thắng. Người đầu tiên là ông Nguyễn Quang Chí, tức Nguyễn Văn Huy. Bảy tháng sau ngày được Bác Hồ đặt tên, ông chuyển công tác khác. Người thứ hai mang tên Thắng Triệu Hồng Thắng tên thật là Triệu Văn Cắt, tức Triệu Tiến Thọ, dân tộc Dao, quê ở Thái Nguyên. Sau năm 1954, ông Triệu Hồng Thắng là Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Khu tự trị Việt Bắc. Ông mất năm 1975. Người thứ tám được Bác Hồ đặt tên Lợi Trần Lợi, tên thật là Trần Đình, dân tộc Nùng, quê ở Cao Bằng, nguyên là chiến sĩ Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, bảo vệ Bác từ năm 1945 đến năm 1950 thì chuyển về địa phương. Ông đã mất trong kháng chiến chống Pháp. Họ đều là những người đã đi vào lịch sử của dân tộc, ai cũng đã đặt một vết son đỏ vào bản hùng ca chiến thắng của dân tộc. Được Bác tín nhiệm và đặt tên, mỗi người đều rất tự hào vì chính họ như là minh chứng của một khẩu hiệu sống, hiển hiện và nhiệt huyết. Tám người “cận vệ” được Bác Hồ khai sinh nay đều đã rời cõi tạm, nhưng giai thoại về những anh hùng ấy hẳn vẫn còn mãi, vẫn được khắc ghi theo dòng lịch sử non sông./. Đinh Thị Trách Tổng hợp
Tags kháng chiến nhất định thắng lợi ebook pdf lịch sử kháng chiến chống mỹ nxb sự thật 1955 trường chinh admin Thư Viện Sách Việt Staff Member Quản Trị Viên Thực hiện sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã nêu cao ý chí tự lực, tự cường vừa chiến đấu, vừa sản xuất, xây dựng lực lượng góp phần vào chiến thắng đông xuân 1953 - 1954, mà đỉnh cao là thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ 07/5/1954 chấm dứt hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp. Tinh thần đó tiếp tục được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phát huy, tạo nên sức mạnh chiến đấu, chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, trong các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc, làm nhiệm vụ quốc tế cao cả và trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Kháng Chiến Nhất Định Thắng Lợi NXB Sự Thật 1955 Trường Chinh 109 Trang File PDF-SCAN Link download Zalo/Viber 0944625325 buihuuhanh Lịch Sử Trung Cận Đông NXB Giáo Dục 2004 - Nguyễn Thị Thư, 366 Trang15/06/2017 Tam Khôi Bị Lục NXB Bộ Giáo Dục 1968 - Hồ Ngu Thuỵ, 137 Trang10/11/2019 Lịch Sử Sử Học Thế Giới NXB Đại Học Sư Phạm 2014 - Phan Ngọc Liên, 224 Trang25/03/2022 Vì Độc Lập Hòa Bình! Đông Dương 1945-1973 NXB Đại Nam 1987 - Thế Nguyên, 260 Trang12/06/2016 Phong Trào Công Nhân Trong Cao Trào Xô Viết Nghệ Tĩnh NXB Lao Động 1980 - Nguyễn Trọng Cổn24/05/2017 Nghiên Cứu Sách Dạy Lịch Sử Việt Nam Viết Bằng Chữ Hán Và Chữ Nôm - Nguyễn Thị Hường, 352 Trang21/05/2017 Lịch Sử Việt Nam Từ 1858 Đến 1945 NXB Giáo Dục 2001 - Nguyễn Đình Lễ, 142 Trang23/06/2013 Di Tích Danh Thắng Tuyên Quang NXB Văn Hóa Dân Tộc 2008 - Phú Ninh, 204 Trang24/12/2017 Cách Mạng Ruộng Đất Ở Miền Nam Việt Nam NXB Khoa Học Xã Hội 1997 - Lâm Quang Huyên, 204 Trang05/06/2017 Nông Dân Quảng Ngãi Những Chặng Đường Lịch Sử 1930-1990 NXB Quảng Ngãi 1995 - Phạm Nhớ, 335 Trang20/05/2017 Nam Bộ & Nam Phần Trung Bộ Trong Hai Năm Đầu Kháng Chiến 1945-1946 - Nguyễn Việt, 164 Trang30/05/2013 Lịch Sử Xứ Uỷ Nam Bộ Và Trung Ương Cục Miền Nam 1954-1975 NXB Chính Trị 2010 - Nguyễn Quý02/12/2017 Đại Thắng Mùa Xuân 1975 Toàn Cảnh Và Sự Kiện NXB Quân Đội 2010 - Nhiều Tác Giả, 377 Trang17/11/2015 Thế Giới Những Sự Kiện Lịch Sử Thế Kỷ XX Tập 1 NXB Giáo Dục 2002 - Lê Trung Dũng, 459 Trang02/07/2017 Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sử Lệ Tập 9 NXB Thuận Hóa 1993 - Viện Sử Học, 553 Trang16/06/2013 Last edited May 16, 2023 Share This Page Forums Forums Members Members Menu
kháng chiến nhất định thắng lợi